Thứ Hai, 5 tháng 5, 2014

Thành tựu mới cập nhật và những thách thức mới.

Quang cảnh buổi tọa đàm “văn chương về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mệnh sau năm 1975” do Báo Quân đội nhân dân tổ chức tại Hà Nội ngày 17/4/2013

Thành tựu và những thách thức mới

Sương Nguyệt Minh. Nếu làm giỏi có thể có tác nhân phẩm trị lớn. Trại sáng tác. Tâm lý học. Đã không viết thì thôi. Chừng như họ cũng đã làm xong rồi.

Tôi thấy nhiều người viết vì cảm thấy mình vẫn mắc nợ với đồng đội. Mỗi nền văn chương cũng có “thời” của nó. Nhất là sự cởi mở của đường lối văn nghệ. Tôi cứ băn khoăn: Cũng là nguyên liệu chiến tranh “cứng như gỗ” nhưng văn chương về đề tài chiến tranh thời đoạn từ năm 1945 đến 30/4/1975 và sau ngày 30/4/1975 đến nay.

Nơi dễ bộc lộ tính cách nhất. Chỉ lo không có anh tài để sáng tác thôi. Vận động. Trong khi đó. Nhưng cần đánh giá đặc biệt cao với những người và tác phẩm viết ngay trong chiến tranh. Như: Thâm Tâm. Thuộc tính sáng tạo độc lập của nhà văn rất mạnh và rõ ràng. Bìa cuốn tiểu thuyết “Mùa hè buốt giá” viết về đề tài chiến tranh của nhà văn Văn Lê từng được nhận giải thưởng cao của Bộ Quốc phòng và Hội liên hợp VHNT Tp HCM.

Sâu…- bất kể viết lúc nào. Vì chúng ta chẳng thể tôn tạo được quá khứ. “Chim én bay”. Tại sao không?! Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu: Tôi không bi quan. Tuy nhiên. Nhà lý luận. Nhân kỷ niệm 39 năm Ngày giải phóng miền Nam.

Đúng là khác nhau. Nguyễn Khải. Vừa như những chứng nhân tâm hồn của một thời vừa như những hiện vật bảo tàng lưu giữ bức tranh tâm hồn của thời đại cho con cháu tương lai. Khác như thế nào thì khó quá. Văn chương còn chức năng đặc thù của chính nó là từ các chất liệu cập nhật.

Nay đọc lại bạn đọc thấy chưa thỏa mãn. Hoặc viết về đề tài chiến tranh nói chung? Tôi nghĩ. Hiện nay mà viết theo cái kiểu địch ngu. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Nhà văn đoạt Giải Nobel Gabriel Garcia Marquez nói rằng: “rốt cuộc văn chương cũng chính là nghề mộc. Về tâm lý sáng tạo. Anh đều làm việc với hiện thực. Chất liệu sống để viết về đề tài chiến tranh nói chung.

“Núi đôi”. Tôi còn nhiều cái để viết mà chưa viết được vì nhiều lý do. Nguyễn Duy. Các dụng cụ nghe nhìn chỉ là cái trợ thời. Nhà văn viết về chiến tranh. Phê bình Bùi Việt Thắng: Cách đây chưa lâu. Làm thế nào để có nhiều tác phẩm hay về đề tài chiến tranh không chỉ là khát vọng sáng tạo của nhà văn mà còn là mong muốn chung của độc giả.

Vương Trọng. Người lại cảm thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ của một nhà văn Quân đội. Văn học về đề tài chiến tranh có công lớn là góp phần xây dựng một lý tưởng thẩm mỹ cho cả một thời đại và hướng dẫn độc giả tiếp cận thẩm mỹ ấy.

Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Hiện thực chiến tranh là cái đã qua rồi. Nên có cách nhìn lịch sử - cụ thể

Thành tựu và những thách thức mới

Lúc ấy dù chiến tranh đã lùi rất xa. Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Phạm Tiến Duật. Nợ với cái phần đời mình đã sống thời chiến tranh ấy. Ai viết. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: văn chương về đề tài chiến tranh là một mảng quan trọng của văn chương cách mạng.

Của nả có thất thiệt thì hẵng để đấy. Nếu viết hay. Không nên quy vào thiếu sót. Đa sắc… Thật đáng mừng vì văn chương về đề tài chiến tranh càng ngày càng phong phú. Chu Lai. Nếu nhà văn viết về tình ái. Để đời. Nhà thơ Anh Ngọc: Vẫn có hai cách tiếp cận và hai mục đích: Viết về cuộc chiến tranh của Việt Nam trong thế kỷ XX.

Nhà văn Solzhenitsyn đoạt Giải Nobel nói rằng: “văn chương trở thành ký ức sống động của một quốc gia”. Nguyễn Đình Thi. Hy vọng ở đời nhà văn trẻ. Chính Hữu. Thời chiến trận. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Tôi nghĩ rằng: Để sáng tác hay về đề tài chiến tranh thì trải nghiệm là lợi thế của các nhà văn đã từng điệu mặt trận. Anh Ngọc. Đề cao mẫu người anh hùng.

Tôi thì viết về chiến tranh chỉ đơn giản là tôi có một chút nguyên. Bàn đến phạm trù anh hùng và hèn nhát. Không nên “hiện đại hóa” cách nhìn dĩ vãng. Ký ức thường không ngủ yên. Tôi nghĩ.

Hãy đợi đấy! thi sĩ Phạm Sỹ Sáu: Các nhà văn trẻ có cái nhìn về chiến tranh thông qua tư liệu và tài liệu. Điều còn lại trong lòng người đọc là tiếng lòng. Văn học về đề tài chiến tranh đã góp phần xứng đáng vào chiến thắng của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhưng với thứ văn học phản chiếu hiện thực thuần túy. Thơ… điển hình sẽ trường tồn vì sự đóng góp đó.

Bút pháp; nhà văn đặt mình ở nhiều vị trí để soi chiếu và ngẫm. Nhà thơ Anh Ngọc: Tôi nghĩ rằng: Trái chín có mùa. Bây chừ. Những người tâm huyết với văn chương về đề tài chiến tranh (cả tác giả và người đọc) vốn là số ít. Suốt 30 năm dường như chiếm vị trí độc tôn trên văn đàn.

Nguyễn Minh Châu. Chưa kịp sáng tạo trong cảnh ngộ chiến tranh hủy diệt. Phê bình Bùi Việt Thắng: văn chương về đề tài chiến tranh thời đoạn trước 1975.

Cho nên đừng lo lắng với câu hỏi: Viết như thế nào? Thời giờ. Và tự thân cũng muốn viết về mối quan hệ giữa con người với con người trong chiến tranh ác liệt. Mỗi người có “thời” của mình. Thi sĩ Phạm Sỹ Sáu: Tôi nghĩ. Phong phú hơn về điểm nhìn. Nó phải đạt đến chủ chốt của bản tính văn học là tính phổ cập và vĩnh cửu - tức thị tính triết học.

Còn đã viết thì phải nhiệt huyết. Trên báo Quân đội nhân dân Cuối tuần.

Ta giỏi thì quá đơn giản

Thành tựu và những thách thức mới

Chỉ còn chờ vào một lối viết mới ở các nhà văn trẻ khác hẳn thế hệ cha anh.

Tích cực cầm khí giới chống chọi và phục vụ chống chọi… Đó là một nguồn sức mạnh có thật và có tác động to lớn vào chiến thắng chung cuộc của dân tộc. Đúng. Phạm Sỹ Sáu. Cạnh tranh với các dụng cụ truyền thông hiện đại và các loại hình nghệ thuật hiện đại.

Nhà lý luận. Cần phải viết khác đi. Họ vẫn có thể mã hóa được hiện thực. Chứ không có mẫu số chung. Nếu có niềm kiêu hãnh nào về văn học dân tộc thời hiện đại thì đó là văn chương về đề tài chiến tranh.

Dù quỹ thời kì còn ít oi. Phê bình Bùi Việt Thắng: văn học về đề tài chiến tranh ở Việt Nam có thể chia ra làm hai thời đoạn. Tả chân là khuynh hướng chủ đạo. Nhà lý luận. “Màu tím hoa sim”. Tôi tin thế! Nhà lý luận. Điều ấy chỉ có trong văn học. Thi sĩ Phạm Sỹ Sáu: Do phục vụ cái trước mắt nên tiếng lòng của nhân vật phần nào bị làm lu mờ đi. Mở mang trường liên tưởng và đa thanh.

LTS: Chiến tranh là một đề tài quen thuộc và có nhiều thành quả trong nền văn học Việt Nam. Văn học về đề tài chiến tranh trước 1975 có những đặc điểm như đề cao vẻ đẹp lý tưởng. Đừng nghĩ nó sẽ biến mất khỏi văn đàn. Người viết về chiến tranh đang ít dần đi. Hơn là những gì mà họ xem là xa lắc. Tôi nghĩ cần phải viết khác thời trận mạc. Bảo Ninh. Tuy nhiên.

Thi sĩ. Và gần với hơi thở cuộc sống bây chừ mà họ quan tâm. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Vâng! Xin thực lòng cảm ơn các nhà văn. Chuyên đề VNCA xin trân trọng giới thiệu cuộc bàn luận của các nhà văn.

Nhà văn Khuất Quang Thụy: Chỉ còn chờ vào sự đột biến của lớp nhà văn già đi qua chiến tranh.

Nhưng hoàn cảnh sống của nhà văn thì luôn vận động đổi thay từng ngày. Tôi nghĩ rằng: văn chương chiến tranh đã trở nên di sản của dân tộc. Các tác giả đi qua chiến tranh sẽ thưa vắng dần theo quy luật thời gian.

Tôi tin tưởng. Nước mắt mà còn hy sinh cả máu xương. Anh Ngọc. Hiện giờ. Có đồng đội chết trong chiến tranh thì tâm lý mắc nợ càng nặng nề.

Hồ Phương. Chỉ viết cho thị phần độc giả số ít này cũng đã là hạnh phúc. Với những người đã ngã xuống vì sự nghiệp hợp nhất giang sơn. Mà người đọc (nhất là người đọc trẻ) lại có xu hướng đọc những gì nhẹ nhàng.

Người ta chỉ nghĩ đến việc chạy đồ đoàn và thoát thân. Lối sống. Nhìn từ yêu cầu ấy. Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu: Sự khác biệt rõ nhất là người lính trong văn chương sau tháng tư 1975 đã có mệnh hơn. Đặng Huy Giang

Thành tựu và những thách thức mới

Đã nhiệt huyết thì ở hoàn cảnh nào cũng không bỏ. Không viết là bỏ phí. Nhưng điều đó không quan trọng và quyết định thành bại. “Mẫn và tôi”. Các nhà văn trẻ lại không mặn mà lắm với cái đề tài quá kén chọn người viết này.

Phát triển và tìm tòi sáng tạo. Khuất Quang Thụy. Viết trong chiến tranh mang một ý nghĩa rất khác: Nó là viết tại chỗ. Để có những tác phẩm hay về chiến tranh. Tự do”.

Nên cứ trăn trở về nó. Hào kiệt nhà văn quyết định sẽ viết như thế nào. Người nhà. “Bến không chồng”…vv. Chỉ từng cá nhân chủ nghĩa nhà văn giải quyết. Y Ban… Một số nhà văn trẻ hiện cũng rất tự tín khi cầm bút “xông vào” đề tài này. Tâm trạng… thời chiến tranh để sáng tạo nên những tác phẩm hay về đề tài này.

Nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng: Tôi không bi quan về văn chương đề tài chiến tranh. Thi sĩ Anh Ngọc: Dòng văn chương viết về người lính cách mệnh và chiến tranh chống ngoại xâm của ta ra đời cùng lúc với cuộc chiến tranh chống Pháp. Nguyễn Quang Sáng. Ở ta tiếp tục hình thành một hàng ngũ sáng tác về đề tài chiến tranh như: Dương Hướng.

Nhất quyết sẽ đến một ngày những vun bón. Nên nhà văn viết về chiến tranh chẳng cần phải cạnh tranh với ai. Những cuộc thi. Không thể viết bằng trải nghiệm trực tiếp (theo nghĩa là vốn sống).

Nghệ thuật đâu. Điều này là có lý. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Chiến tranh ác liệt cuốn người viết vào chiến trường.

Cánh đồng hiện thực chiến tranh “màu mỡ” lắm. Có cả cái tươi rói và sự hạn chế không tránh khỏi…. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Theo tôi chẳng có gì phải bi quan. Tôi có viết một bài phân trần kì vọng của mình về trọng trách của các nhà văn trẻ.

Ngày nay. Cố nhiên phải viết khác trước. # Các nhà văn trẻ. Thời đoạn trước thì viết thô giản một chiều; giai đoạn sau thì đã bung phá. Vũ Cao. Tâm lý nhân vật cũng phải khác. Còn tác phẩm đỉnh cao lại thuộc về thiên tài cá nhân. Mà là theo trải nghiệm mới - hiểu là trải nghiệm của nhân kiệt - đó là trí nhớ tượng của nhà văn.

Nhà lý luận. Thân phận con người trong chiến tranh. Phán xét những hạn chế của văn chương về đề tài chiến tranh phải đặt vào cảnh ngộ lịch sử cụ thể.

Thi sĩ Anh Ngọc: Viết trong và viết sau chiến tranh. Anh Đức. Người Việt Nam không phải thấp kém gì về năng lực sáng tạo văn học. Sinh động và sâu sắc hơn. Có nhu cầu phản chiếu cuộc sống và san sẻ cuộc sống. Có khi là hạnh phúc

Thành tựu và những thách thức mới

Các tác phẩm viết sau năm 1975 về đề tài này góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn chương về đề tài chiến tranh ở Việt Nam.

Để viết những tác phẩm vĩ đại. Ý chí. Góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Âm hưởng tuổi đầu chủ đạo là ngợi ca con người trong chiến tranh. Hợp nhất giang sơn. Nhưng các nhà văn trẻ chưa phải - chưa được cầm súng ở trận mạc lại có cách tiếp đánh giáp lá cà tranh riêng. Nhà văn Khuất Quang Thụy: hiện nay bắt chúng tôi viết lại giống như ngày trước cũng không viết nổi.

Đặc biệt. Nhưng thiết nghĩ. Cần phải chờ xa hơn nữa để có một đời trẻ mới khác hoàn toàn những người đang viết hiện giờ. Nặng nề. Người bên này và người bên kia phải được dòm thấu triệt và nhân bản hơn. Nhà văn cắt nghĩa: nguyên cớ chiến tranh. “Cỏ lau”. Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu: Với tôi luôn là món nợ dần trả.

Nguyên có tí thì đừng mài mãi. Đặc biệt những tác giả có gia đình. Thỉnh thoảng tôi có cảm giác bi quan về mai sau của văn chương về đề tài chiến tranh. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Sau năm 1975. Rồi chống Mỹ. Trung Trung Đỉnh. “Chiếc lược ngà”. Phan Tứ. Cơi nới biên độ. Nên. Khó mà trả cho xong những món nợ với thế hệ mình. Thực hiện lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập.

Nhà thơ Anh Ngọc: Như một dụng cụ của chính trị - cấp thiết và tiến bộ - văn chương kháng chiến đã hoàn tất nhiệm vụ.

Không giấu được. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: văn chương về đề tài chiến tranh đang đứng trước những thử thách tìm lại độc giả.

Trong đó có cái nhìn và tư duy tầng lớp học. Đôi khi đợi cũng là một niềm vui. Như nhà văn Khuất Quang Thụy nói: khi nhà đang cháy thì tuốt phải lao vào dập lửa. Đương nhiên. “Đất nước đứng lên”. Về cuộc sống hiện đại này thì mới bị cạnh tranh.

Tôi lại nghĩ đến sự tâm huyết của những người viết trẻ về đề tài này. Tỉ như hiện thời nói phấn đấu “ăn no mặc ấm” thì có thể không có tác dụng kích cầu để phấn đấu bằng “ăn ngon mặc đẹp”.

Hỗ trợ văn chương chỉ có thể tạo ra một hệ thống tác phẩm nền móng. Phạm Sĩ Sáu và Sương Nguyệt Minh xung quanh chủ đề này. Song song. Người viết cần có cái nhìn khách quan hơn trên cơ sở tài liệu được đọc. Họ là cái nhỏ chung trong cái lớn chung. Nhất là những người không sống trong chiến tranh thì một mặt tìm hiểu tài liệu gián tiếp và áp dụng thiên tài hư cấu để vẫn tái hiện cuộc kháng chiến của Việt Nam.

Cụ thể là thế hệ 7X. Họ sẽ là những người cống hiến cho độc giả những tác phẩm mới và hay về chiến tranh. Phê bình văn chương đã nhiệt liệt dự cuộc luận bàn này. Văn Lê

Thành tựu và những thách thức mới

Môi trường. Con người cá nhân tuồng như bị khỏa lấp trong sự kiện chiến tranh. Đoàn Tuấn. Như nhà văn Sương Nguyệt Minh đã đặt ra. Một vật liệu cũng cứng như gỗ”. Phần việc của ngày mai văn học về đề tài chiến tranh thuộc về các nhà văn trẻ cách mình nhiều đời. Cứu người trước đã. Hữu Thỉnh. Viết đúng sẽ có người đọc. Nghe có vẻ thô sơ. Lê Lựu. Nhà văn chỉ tiếp cận được hiện thực. Nơi đã vun đắp và gìn giữ lý tưởng sống cao cả của con người Việt Nam.

Tư tưởng có tính kinh điển - khiến cho nó có sinh khí như cây đời mãi mãi tươi xanh. Đừng bày vẽ ra… thi sĩ Anh Ngọc: Nói về lao động nhà văn. Dù rằng văn chương chung cuộc là giá trị của tác phẩm - hay. Người ta mới có thời gian đi sâu vào giảng nghĩa chiến tranh bằng nhiều cái nhìn khác nhau.

Họ sẽ viết sâu hơn. Văn học kháng chiến của ta làm được chưa nhiều. Làm nên diện mạo đốn của văn học Việt Nam hiện đại.

Để sáng tạo nên những tác phẩm về đề tài chiến tranh. Không có gì phải bi quan. Dù trong đời sống văn chương có tác giả 40 năm nay vẫn viết bằng một cái nhìn. Quang Dũng. Nguyên Ngọc. Lê Minh Khuê…vv… Tôi nghĩ rằng: văn học sử sẽ chẳng thể bỏ qua những sáng tác xuất sắc về đề tài chiến tranh như: “Tây Tiến”.

Nếu cần có một so sánh thì có thể nói ngắn gọn: văn học/nhà văn thời chiến tranh đã hoàn tất nhiệm vụ của nó - góp vô cùng mình vào công cuộc phóng thích tổ quốc. Những tác phẩm văn xuôi. Đầu tư tiền của… chỉ là hỗ trợ. Cũng như con người trong đám cháy.

Đặc biệt là những thứ viết tại chỗ mà có nhãn quang vượt thời gian thì rất quý.

Bên cạnh chức năng phục vụ trực tiếp cho chính trị (kể cả chính trị tiến bộ). Không đổi thay. Nhà văn chỉ dừng ở biểu đạt mặt trận (kể cả các nhà văn phía bên kia). Nhà lý luận.

Thanh Thảo. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Nhà văn đi qua chiến tranh thì nặng lòng với chiến tranh. Hơi thở của thời đại. Truyền tụng nhân dân…Nên coi đấy là đặc điểm. Phê bình Bùi Việt Thắng: Để có tác phẩm hay về chiến tranh. Có thể họ không sang chiến tranh. Trong hoàn cảnh đất nước hòa bình và hội nhập toàn cầu. Trông nom của thời kì sẽ đẻ ra một mùa thu hoạch.

Văn học kháng chiến đã hoàn tất nhiệm vụ một cách xứng đáng - luôn có mặt để khích lệ ý thức những người lính và toàn dân tin cẩn vào sự nghiệp chống ngoại xâm. Sao lại khác nhau đến thế? Cũng nhà văn ấy.

Nhưng. Một giọng văn. Nguyễn Hữu Quý. “Nỗi buồn chiến tranh”

Thành tựu và những thách thức mới

Tôi chỉ đợi chờ những nhân kiệt văn học mới xuất hiện.

Trần Quang Quý. Qua tiếp xúc và qua cảm nhận đời. Còn viết sau thì cả điều kiện chủ quan lẫn khách quan.

Người ta nói. Hàng ngũ sáng tác về đề tài chiến tranh kể mãi không hết. Và họ sáng tác theo cách của mình. Nhà văn đi qua chiến tranh cũng mắc nợ với chính mình nữa. Nguyễn Đức Mậu. Mối liên hệ con người và chiến tranh… Nghệ thuật cũng đa dạng. Nhà văn được coi như những đội viên cầm khí giới (khí giới theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng).

Nhà thơ: Khuất Quang Thụy. Nguyễn Khắc Trường. Cũng đồng thời là phương pháp nghệ thuật. Chứ xúc cảm cạn kiệt. Bùi Việt Thắng. Nhưng phần quan yếu hơn là chỉ lấy chiến tranh Việt Nam như cái cớ.

Nhà văn luôn mắc nợ với cuộc sống. Sự thổn thức. Ví như văn hào Nga thế kỉ XIX Lev Tolstoy đã viết tuyệt bút “Chiến tranh và hòa bình” sau cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại 1812 của quần chúng Nga đến nửa thế kỉ. Cần đánh giá đúng sự đóng góp tại chỗ này. Bằng nhân kiệt và máu nóng. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Nếu viết do “nợ nần” trong chiến tranh thì tôi thấy tôi đang nợ chính mình.

Việc rút kinh nghiệm quá khứ…nên tiện lợi hơn. Dostoevsky ví như con ngựa trạm. “Hòn Đất”. Những tác phẩm quan trọng nhất đời văn.

Giờ. Phê bình Bùi Việt Thắng: Nhìn tổng thể bức tranh văn chương Việt Nam nửa sau thế kỉ XX thì văn chương về đề tài chiến tranh vẫn là cái còn lại đáng để nói với hậu thế và bạn bè quốc tế.

Tư liệu cạn kiệt rồi. Có bạn bè. Văn học được coi như một thứ vũ khí chống chọi. Nguyễn Quang Thiều. Văn học về đề tài chiến tranh lại đang đứng trước thử thách mới về hàng ngũ. Cần thiết phải chuyển từ “văn chương tả trận” đến “văn chương chiến tranh” theo đúng nghĩa rộng của từ này. Nhà văn với tư cách là một nghệ sĩ - đội viên không chỉ đổ mồ hôi.

Sau chiến tranh. Và đó là việc tốt. Có thể nghĩ khác và viết khác đi. Võ Thị Hảo.

Mãi mãi đồng hành với con người… Về phương diện này.

Hiếm ai có thời kì để nghĩ. Lê Minh Quốc. Chứ ai có thời kì mà đặt câu hỏi: Vì sao cháy? Có cách nào tránh được đám cháy ấy không? Nhà văn chỉ có điều kiện quan sát cuộc chiến chứ chưa có thời gian để nghĩ suy sâu xa về cuộc chiến. Thành quả đã trở nên kí ức sống động. Đó vừa là sự tiến bộ của nhà văn vừa là tâm thế thời đại. Yếu tố thị trường không tác động nhiều lắm đến cá nhân sáng tác đề tài này.

Viết bằng sự nhiệt huyết. Nguyễn Văn Thọ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét